Giá trị của một số dấu ấn sinh học trong chẩn đoán ung thư phổi đang được làm tại Bệnh viện TƯQĐ 108

  03:01 PM 18/09/2015
Các dấu ấn ung thư (tumour markers) là những chất thường có bản chất peptide, được tiết ra bởi các tế bào ung thư, chúng thường không có hoặc có với nồng độ rất thấp trong huyết thanh của người bình thường. Dưới đây là một số dấu ấn ung thư hay được sử dụng trong chẩn đoán và theo dõi ung thư phổi.

1. Neuron Specific Enolase (NSE):
Là dấu ấn ung thư được dùng trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTP KTBN). NSE có trong tiểu cầu và hồng cầu có tác dụng ngăn ngừa chảy máu. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 13g/l. Tăng NSE trong huyết thanh mức độ vừa gặp 10-20% trong UTP KTBN và một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có bệnh phổi lành tính hoặc một số bệnh ác tính khác của tụy, dạ dày, vú. Ngược lại, mức NSE tăng gấp đôi bình thường nghĩ đến ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP TBN) hoặc u thần kinh nội tiết. Độ nhạy của NSE trong UTP TBN từ 50-80%, liên quan đến sự tiến triển của khối u. Nhiều nghiên cứu cho thấy NSE có giá trị như một yếu tố tiên lượng độc lập trong cả UTP TBN và UTP KTBN. NSE còn có giá trị trong việc theo dõi điều trị cũng như phát hiện UTP TBN tái phát sau điều trị ban đầu.

2. Pro-gastrin-releasing Peptide (ProGRP):
Là tiền thân của hormon giải phóng gastrin. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 50 pg/ml. Độ đặc hiệu của ProGRP cao và chỉ có suy thận mới sinh ra mức tăng có ý nghĩa của dấu ấn này trong huyết thanh. Ngoài suy thận, dưới 5% bệnh nhân có bệnh lành tính hoặc ác tính, không kể UTP hoặc u thần kinh nội tiết có tăng ProGRP >50pg/ml. Nồng độ ProGRP liên quan chặt chẽ với týp UTP, tăng cao nhất ở bệnh nhân UTPTBN.
Độ nhạy của ProGRP từ 40-60% ở UTP TBN giai đoạn khư trú và từ 75-85% ở giai đoạn tiến triển. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy ProGRP có độ nhạy cao hơn NSE ở bệnh nhân UTPTBN giai đoạn khư trú. Tuy nhiên, khi kết hợp với NSE làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán, tiên lượng, theo dõi và chẩn đoán sớm tái phát.

3. Carcinoembryonic Antigen (CEA):
CEA là một glycoprotein với trọng lượng phân tử 180kDa, là kháng nguyên ung thư bào thai sinh ra trong quá trình phát triển của bào thai và thai nhi. Giá trị bình thường trong huyết thanh < 5ng/ml. Nồng độ CEA tăng nhẹ dưới 10ng/ml gặp 5-10% ở những người hút thuốc và một số bệnh lành tính khác như gan và thận (<20ng/ml). CEA là dấu ấn ung thư sử dụng chủ yếu trong ung thư biểu mô tuyến. Độ nhạy của CEA từ 40-70% trong UTP KTBN và từ 30-65% trong UTP TBN. Độ nhạy và nồng độ cao nhất của CEA gặp trong ung thư biểu mô tuyến, nồng độ thấp nhất là trong ung thư phế quản dạng biểu bì. CEA có giá trị tiên lượng trong UTP KTBN, đặc biệt trong ung thư biểu mô tuyến. Nếu kết hợp với các dấu ấn khác, CEA có giá trị chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi điều trị.

4. Cytokeratin-19 Fragment (Cyfra 21-1):
Cyfra 21-1 là Cytokeratin-19 Fragment hòa tan trong nước. Giá trị bình thường trong huyết thanh < 3,3 ng/ml. Các nghiên cứu về mô bệnh học cho thấy Cyfra 21-1 tăng cao trong UTP. Mức tăng nhẹ (>3,3ng/ml) của dấu ấn này thấy ở một số bệnh lành tính như bệnh gan và suy thận, trong một số bệnh ác tính ngoài phổi khác như phần phụ, tuyến tiêu hóa, u trung biểu mô màng phổi, đường tiết niệu. Tuy nhiên, nồng độ Cyfra 21-1 tăng cao nhất trong UTP, chủ yếu UTP KTBN. Khi so sánh với các dấu ấn ung thư khác, một số tác giả cho rằng Cyfra 21-1 là dấu ấn ung thư nhạy nhất trong UTP, với nồng độ cao nhất trong UTP dạng biểu bì. Độ nhạy của Cyfra 21-1 từ 30-75% trong UTP KTBN và từ 20-60% trong UTP TBN. Cyfra 21-1 rất có giá trị trong chẩn đoán, tiên lượng (chủ yếu UTP KTBN), chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi điều trị.

5. Squamous Cell Carcinoma Antigen (SCC):
Là một prrotein có trọng lượng 48kDa. Ứng dụng lâm sàng của dấu ấn này chủ yếu trong các u biểu bì có nguồn gốc khác nhau: cổ tử cung, thực quản, đầu, cổ và phổi. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường <1,9 ng/ml. Kết quả dương tính giả chủ yếu gặp trong suy thận và rối loạn sắc tố da, có khi gấp 30-40 lần giá trị bình thường. Độ nhạy của SCC trong UTPKTBN từ 25-60% nhưng rất thấp ở UTPTBN (<5%), cao nhất trong UTP dạng biểu bì. Một trong những ứng dụng quan trọng nhất của SCC trong UTP là chẩn đoán týp ung thư, ngoài ra nó còn có ý nghĩa như một yếu tố tiên lượng, chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi tiến triển của bệnh.

6. Tissue Polypeptide Antigen (TPA):
Là dấu ấn có bản chất hóa học được Bjorklund B và Bjorklund V phát hiện năm 1957, gồm 4 tiểu phân protein (A1, B1, B2, C) với trọng lượng phân tử 20.000-40.000 Da. Tiểu phân chính B1 được tìm thấy trong tổ chức phôi thai ở tuần thứ 10, 17 và 24. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 80U/l. Nồng độ TPA tăng nhẹ trong một số bệnh lành tính như nhiễm khuẩn, virus, viêm gan cấp và bệnh tự miễn; tăng cao hơn trong một số bệnh ác tính của vú, phổi, dạ dày, đại tràng, tụy, bàng quang, tiền liệt tuyến, u lympho. Trong UTP, nồng độ TPA trước điều trị liên quan đến cả kích thước u, hạch di căn và di căn xa. Sau điều trị nồng độ TPA giảm dần. Độ nhạy của TPA trong UTP KTBN từ 36-82%. TPA tăng cao ở bệnh nhân UTPKTBN (đặc biệt UTP dạng biểu bì) hơn là UTP TBN.

TS.BS. Nguyễn Minh Hải
Khoa Lao và Bệnh phổi – Bệnh viện TƯQĐ 108
Chia sẻ