Bạch cầu tủy mạn
là một trong những bệnh máu ác tính với tần xuất không quá cao (khoảng 1-2
ca/100000 dân/năm) tuy nhiên đây lại là bệnh mà người ta biết khá rõ về cơ chế
bệnh học phân tử. Nhờ đó phác đồ điều trị bệnh này đã được chuẩn hóa bởi Tổ chức
y tế thế giới (WHO); Hội ung thư Châu âu (ESMO); và Mạng lưới bệnh bạch cầu
Châu âu (ELN).
Việc chữa trị
bệnh bạch cầu tủy mạn được coi là có bước phát triển về chất kể từ khi trên thị
trường xuất hiện dược phẩm có tên thương mại là Imatinib hay Glivec (và các dạng
cải tiến của nó như Dasatinib, Nilotinib) đây là hợp chất hóa học có khả năng ức
chế protein tyrosine kinase BCR-ABL gây nên sự chết tế bào có chương trình
(apotosis) cho các tế bào mang BCR-ABL. Dược phẩm này đã được chỉ định điều trị
cho các bệnh nhân mang nhiễm sắc thể Philadelphia (bao gồm cả ung thư bạch cầu
tủy mạn – CML và ung thư bạch cầu lympho cấp acute lymphoblastic leukemia-ALL
mang nhiễm sắc thể Philadelphia).
Theo các hướng
dẫn và khuyến cáo do các hiệp hội nhà nghề y quốc tế ban hành: Bệnh nhân bạch cầu
tủy mạn được coi là có đáp ứng điều trị tối ưu nếu: (i) thuyên giảm ở mức độ
huyết học đạt được sau 3 tháng điều trị; (ii) thuyên giảm mức độ tế bào học đạt
được sau 12 tháng điều trị; (iii) thuyên giảm ở mức độ phân tử đạt được sau 18
tháng điều trị. Cũng theo các hướng dẫn này, bệnh nhân bạch cầu tủy mạn cần được
kiểm tra các thông số huyết học 2 tuần một lần trong 3 tháng đầu nhằm quan sát
thuyên giảm bạch cầu ở mức độ huyết học, sau 3 tháng điều trị nếu đạt đến mức
thuyên giảm huyết học bác sỹ lâm sàng cần chỉ định xét nghiệm phân tử đánh giá
tỷ lệ BCR-ABL/ABL 3 tháng một lần, xét nghiệm này bắt buộc phải tiến hành ngay
cả sau khi kết thúc điều trị nhằm đánh giá nguy cơ tái phát (Baccarani, Cortes et al. 2009).
Để quan sát sự
thuyên giảm của bệnh bạch cẩu tủy mạn, bác sỹ lâm sàng có thể chỉ định các xét
nghiệm như lai hóa huỳnh quang tại chỗ (flourescent in situ
hybridization-Fish), đếm hình thái miễn dịch tế bào (flow cytometry) và định lượng
sinh học phân tử (real time quantitative PCR- qPCR). Trong 3 phương pháp nói
trên thì định lượng sinh học phân tử có ngưỡng phát hiện tốt nhất (bằng phương
pháp này đa số các phòng thí nghiêm trên thế giới có thể phát hiện được 1 tế bào
bạch cầu tủy mạn trong 105 tế bào thường) (Baccarani, Saglio et al. 2006).
Đây là phương pháp duy nhất có thể quan sát được mức độ thuyên giảm của bệnh bạch
cầu tủy mạn ở mức độ sinh học phân tử (tỷ số BCR-ABL/ABL ≤ 0,0001và cũng là
phương pháp duy nhất được WHO; ESMO; ELN khuyến cáo đưa vào quan sát đáp ứng điều
trị cho bệnh nhân bạch cầu tủy mạn (Baccarani, Saglio et al. 2006, Baccarani, Cortes et al. 2009,
Baccarani and Dreyling 2010).
Cho đến nay ở nước
ta việc áp dụng các khuyến cáo và hướng dẫn nêu trên vẫn còn hạn chế. Nguyên
nhân có thể: (i) do kinh phí điều trị bằng các thuốc đặc hiệu còn cao; (ii)
chưa có phương tiện để đánh giá, theo dõi điều trị. Do đó, để làm cơ sở cho việc
chỉ định, đánh giá theo dõi điều trị bệnh bạch cầu tủy mạn chúng tôi triển khai
nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp định lượng
bệnh tồn dư tối thiểu (tỷ lệ bắt chéo BCR-ABL/ABL) sử dụng nguyên lý Real Time
PCR Taqman probe với 2 cặp mồi thông dụng và một đầu do phân tử )taqman
probe) có độ nhạy đáp ứng được theo khuyến
cáo của các Hội nghề nghiệp trên thế giới.
Tỷ lệ
BCR-ABL/ABL còn có một tên gọi khác là bệnh tồn dư tối thiểu (minimal residual
disease-MRD), đây là chỉ số mô tả trực tiếp hay gián tiếp mật độ tế bào ung thư
máu trong cơ thể bệnh nhân. Trong điều trị ung thư máu nói chung và bạch cầu tủy
mạn nói riêng chỉ số bệnh tồn dư tối thiểu phản ánh đáp ứng điều trị của bệnh
nhân đối với mỗi phác đồ điều trị cụ thể, nó giúp bác sỹ lâm sàng quyết định tiếp
tục hay chấm dứt điều trị cho từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. Hơn nữa bệnh tồn
dư tối thiểu còn đóng vai trò tiên lượng nguy cơ tái phát bệnh (Hochhaus 2002, Yin and Grimwade 2002, Kern, Schoch et al. 2005).
Hiện nay có nhiều chiến lược được dùng để đánh giá bệnh tồn dư tối thiểu cho bệnh
nhân bạch cầu tủy mạn, trong đó phương pháp sinh học phân tử dựa trên phản ứng
chuỗi (PCR) cho ngưỡng phát hiện tốt hơn cả, đặc biệt thủ tục tiến hành một xét
nghiệm định lượng phân tử tỷ lệ BCR-ABL/ABL đã được chuẩn hóa bởi hướng dẫn do
mạng lưới ung thư máu Châu Âu đề xuất (European leukemia network –ELN). (Baccarani,
Cortes et al. 2009).
Do chuyển đoạn BCR-ABL mã hóa cho nhiểu
biến thể khác nhau, một số cơ sở y tế trong nước bóc tách xét nghiệm phát hiện
hoặc định lượng nhiễm sắc thể Philadelphia thành 02 xét nghiệm chính là p210 hoặc
p190, với cách làm này bệnh nhân phải chi trả nhiều hơn.
Hiện nay theo biểu giá ban hành của Bệnh
viện TƯQĐ 108, mỗi bệnh nhân làm xét nghiệm phát hiện nhiễm sắc thể
Philadelphia chỉ phải trả 3 triệu/lần xét nghiệm cho tất cả 08 biến thể đã biết
của nhiễm sắc thể Philadelphia (BCR-ABL).
Liên hệ: Khoa Sinh học Phân tử
Điện thoại: 04. 62784169