Một nghiên cứu pha II về hiệu quả của thuốc pazopanib ở bệnh nhân châu Á bị ung thư biểu mô vòm hầu giai đoạn tái phát/di căn

  04:35 PM 27/09/2021
Ung thư biểu mô vòm hầu là bệnh phổ biến ở người châu Á. Trong bệnh ung thư vòm hầu thì quá trình tăng sinh mạch máu đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của khối u. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng pazopanib sẽ có tác dụng điều trị ung thư biểu mô vòm hầu dựa trên hoạt tính kháng tăng sinh mạch của thuốc.

Nghiên cứu này sử dụng pazopanib đơn trị liệu trên bệnh nhân ung thư biểu mô vòm hầu type II/III theo phân loại của WHO (ung thư biểu mô vòm hầu không sừng hóa và ung thư biểu mô vòm hầu không biệt hóa/kém biệt hóa) giai đoạn di căn/tái phát và thất bại với ít nhất một phác đồ hóa chất trước đó. Bệnh nhân trong nghiên cứu thuộc nhóm có điểm toàn trạng PS: ECOG = 0-1 và chức năng gan, thận bình thường được điều trị pazopanib 800 mg mỗi ngày chu kỳ 21 ngày.

Ba mươi ba bệnh nhân tham gia thử nghiệm từ tháng 8 năm 2007 đến tháng 8 năm 2009. Các bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 50 tuổi (36–68 tuổi). Nhóm bệnh nhân này đã được điều trị trước đó với nhiều phác đồ hóa chất, trung bình là 3 phác đồ (từ 1 đến 7 phác đồ).

Đánh giá đáp ứng mỗi 6 tuần. Không bệnh nhân nào đạt đáp ứng hoàn toàn, 2 bệnh nhân (6,1%) đáp ứng một phần, 16 bệnh nhân (48,5%) bệnh ổn định và 11 bệnh nhân (33,3%) bệnh tiến triển. 4 bệnh nhân không được đánh giá do 2 bệnh nhân tử vong trước khi đánh giá và 2 bệnh nhân từ chối điều trị, 1 trong số đó có đáp ứng một phần chưa được xác nhận). Tỷ lệ lợi ích lâm sàng là 54,5% (CI 95%: 38,0–70,2) sau 12 tuần. 10 bệnh nhân (30,3%) được điều trị hơn 6 chu kỳ (4 tháng) và 7 bệnh nhân (21,2%) có tỉ lệ đáp ứng một phần/bệnh ổn định kéo dài ít nhất 6 tháng). Ở lần đánh giá đáp ứng đầu tiên, 60% bệnh nhân có giảm kích thước khối u.

Hình 1: A. Thay đổi kích thước của khối u sau khi đơn trị liệu pazopanib trong ung thư biểu mô vòm hầu. B. Xác định di căn phổi sau khi điều trị bằng pazopanib ở thời điểm 6 tháng so với lúc ban đầu.

Một bệnh nhân tử vong vì hội chứng chảy máu và nhồi máu cơ tim trước khi đánh giá đáp ứng. Độc tính của pazopanib độ 3/4 bao gồm mệt mỏi (12,1%), hội chứng bàn tay bàn chân (15,2%), chán ăn (9,1%), tiêu chảy (6,1%), nôn (6,1%), mất nước (3%), tăng huyết áp (3 %), hạ natri máu (3%), sốt giảm bạch cầu trung tính (3%), protein niệu (3%), và tràn dịch màng ngoài tim (3%). 14 bệnh nhân cần giảm liều từ 800 đến 600 mg, và 6 bệnh nhân giảm liều xuống 400 mg. Việc giảm liều do mệt mỏi (n = 5), hội chứng bàn tay bàn chân (n = 3), tăng huyết áp (n = 1), protein niệu (n = 1), hạ natri máu (n = 1), nôn (n = 1) , viêm màng não mủ (n = 1) và tràn dịch màng ngoài tim (n = 1).

Hai bệnh nhân tử vong mà không có đánh giá đáp ứng được ghi nhận là có bệnh tiến triển. Trung vị thời gian sống thêm không bệnh tiến triển (PFS) là 4,4 tháng (CI 95%: 3,9–5,8 tháng). Trung vị thời gian sống thêm toàn bộ (OS) là 10,8 tháng (CI 95%: 8,6–21,8 tháng). OS ở thời điểm 1 năm là 44,4% và PFS ở thời điểm 1 năm là 13%.

Kết quả nghiên cứu cho thấy pazopanib có tác dụng đáng khích lệ trong điều trị ung thư biểu mô vòm hầu đã được điều trị nhiều phác đồ trước đó với mức độc tính chấp nhận được.

 

BS. Nguyễn Thị Minh

Khoa Ung thư Tổng hợp – Bệnh viện TWQĐ 108

Chia sẻ